Trầm hương: Cây dó bầu, tạo trầm lợi ích, thách thức và triển vọng

Trầm hương: Cây dó bầu, tạo trầm lợi ích, thách thức và triển vọng

Việt Nam có một số loài thực vật vô cùng quý hiếm. Nhiều tài liệu, sổ sách đã ghi chép: " Bên cạnh nhóm cây dược liệu, nước ta còn có một nhóm cây tinh dầu, mà tinh dầu của chúng có thể làm được dược phẩm, hương liệu và thực phẩm… Trầm hương là phần gỗ thơm ở cây dó mọc trên dãy Trường Sơn từ Quảng Bình trở vào. Đây là hương liệu và dược liệu quý " (Việt Nam đất nước giàu đẹp - Nxb Sự Thật, năm 1978).

I. TRẦM HƯƠNG VÀ CÔNG DỤNG

  1.1.Trầm hương

Trầm hương là phần gỗ của cây dó nhiễm dầu. Một số lòai dó (Aquilaria), thuộc họ trầm (Thymelaeae) trong quá trình sinh trưởng, do những tác động nào đó, tạo sự phản ứng tương tác, lâu ngày trong cây tích tụ một chất dạng dầu, rồi lan dần ra, làm biến đổi các phân tử gỗ, tạo nên nhiều màu sắc (nâu, xám, chàm, đen, … ), nhiều tính chất (cứng, mềm, dẻo, dòn …), nhiều mùi vị (thơm, đắng, cay, chua, ngọt, … ), nhiều hình dáng (tròn, xoắn, dẹp, dài, … ), ở nhiều vị trí (thân, cành, rễ) trong cây dó. Đó là trầm hương , có tên giao dịch thương mại Quốc tế  Agarwood.

Đặc điểm nổi bật của trầm hương là tỏa hương thơm đặc biệt lúc đốt. Căn cứ mức độ nhiễm dầu, màu sắc, hương vị, hình dáng, trọng lượng, xuất xứ … mà trầm hương có các tên gọi khác nhau như: Trầm mắt tử, trầm mắt đảo, trầm bọ sánh, trầm bông, trầm da báo, trầm điệp lá, trầm điệp trai, trầm kiến xanh, trầm kiến lọn, trầm rục, trầm sanh … Theo phẩm cấp, trầm hương được xếp thành 3 hạng, mỗi hạng chia thành nhiều loại, mỗi loại có thể phân thành một số thứ loại.

Hạng nhất là kỳ nam hay còn gọi là kỳ: Là loại trầm hương có phẩm cấp cao nhất, cho nhiều dầu (các phân tử gỗ đã nhiễm dầu hầu như trọn vẹn), khi nếm có đủ vị chua, cay, đắng, ngọt, tỏa mùi thơm tự nhiên, khi đốt hương thơm đặc biệt, khói xanh, bay thẳng và dài lên không trung. Kỳ nam được chia thành 4 loại: Bạch kỳ, thanh kỳ, hùynh kỳ, hắc kỳ. Sách xưa xếp loại kỳ nam: nhất Bạch, nhì Thanh, tam Huỳnh, tứ Hắc. 

Hạng hai là trầm: Là lọai trầm hương ít dầu hơn kỳ, vị  đắng, hầu hết khi đốt mới tỏa mùi thơm, khói khi đốt màu trắng, bay quanh rồi tan ngay. Theo phẩm cấp, trầm được xếp thành 6 loại, từ 1 đến 6 và trong từng loại được phân theo một số thứ loại (ví như loại 5 thì có 5 yếu, 5 thường, 5 đẹp…). Sách xưa chia trầm hương thành 5 loại: Hoàng lạp trầm, Hoàng trầm, Giác trầm, Tiến hương, Kê cốt hương, trong đó Hoàng lạp trầm là tốt nhất.                                     

Hạng ba là tốc: Tốc có mức nhiễm dầu ít, chủ yếu là từ bên ngòai và xen dài theo thớ gỗ. Có nhiều  lọai tốc, với các tên gọi như: Tốc kiến, tốc đá, tốc cá ngừ, tốc hương, tốc lọn, tốc dây, tốc đĩa… Nhưng có thể xếp các dạng tốc thành 4 nhóm: Tốc đĩa, tốc dây, tốc hương, tốc pi. Trong 4 nhóm tốc trên, thì tốc đĩa được đánh giá cao hơn về chất lượng. Tuy nhiên, việc xếp nhóm tốc không nhất thiết theo thứ bật trên.

Đến nay chưa có văn bản chính thức của cơ quan Nhà nước hay của các tổ chức khác, quy định về tiêu chuẩn phân loại, đánh giá phẩm cấp trầm hương. Theo TS Lê Công Kiệt, tiêu chuẩn đánh giá trầm hương thường đựa vào : Nguyên xứ, cường độ, loại hương, hình thù, kích cở, màu sắc, trọng lượng, tỷ trọng, độ tinh khiết và loài cây dó tạo ra trầm hương. Trong giao dịch mua bán, việc phân loại trầm hương ở nước ta, phần lớn dựa vào cảm nhận, kinh nghiệm, đồng thuận giữa các bên, thông qua hành vi trực tiếp của con người như nhìn, sờ, gọt, đốt, nếm, ngửi…

1.2. Công dụng của trầm hương

 Trầm hương là dược liệu quý: Theo Đông y,  trầm hương là vị thuốc quý  hiếm,  vị cay, tính  ôn, có  tác  dụng  dáng khí,  nạp thận, bình can tráng  nguyên dương, chữa các bệnh đau bụng,  đau ngực,  nôn mửa,  hen suyển,  lợi tiểu,  giảm đau,  trấn tĩnh,  hạ sốt,  cấm khẩu,  thổ huyết, khó thở, kích dục …
Theo Lê Trần Đức trong sách: " Thân thế và sự nghiệp y học của Hải Thượng Lãn Ông " (1971) thì từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên nhân dân ta đã dùng trầm hương để phòng và chữa bệnh .Vào thế kỷ thứ  XIV, trong Nam dược thần hiệu, Tuệ Tĩnh đã viết về trầm hương: " Vị cay, khí rất thơm, tính ấm, thông quan, trị phong độc, trúng độc, trừ tà, ấm dạ dày, bổ nguyên dương, tiêu hoá ".

Trong tác phẩm Lĩnh Nam bản thảo (quyển thượng và quyển hạ) thuộc bộ sách Hải thượng y tông tâm lĩnh của  Hải Thượng Lãn Ông  cũng như trong sách " Tủ thuốc nhân dân " (1953 - 1954) của Võ Văn Hưng ; sách " Việt Nam  dược vật thực dụng " (1957) của Đỗ Phong Thuần;  sách " Đông y gia truyền " (1957) của Lê Văn Khuyên; sách " Dược liệu Việt Nam " (1978);  sách " Y học Cổ truyền dân tộc " ( tập II - 1985) của Trường Đại học Y dược Hà Nội ; sách " Hiểu biết cơ bản về phương dược theo Y học cổ truyền " (1983) của Nguyễn Trung Hoà; sách " Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam " (tái bản năm 2004) của GS Đỗ Tất Lợi và nhiều tài liệu khác về dược liệu, đông y, đều cho trầm hương là dược liệu qúy, sử dụng trong hàng trăm bài thuốc y học cổ truyền, chữa bệnh rất hiệu nghiệm.

Theo Tây y, trầm hương có tính kháng sinh, tạo kháng thể mạnh (diệt khuẩn, làm lành vết thương), có tác dụng chữa một số bệnh về tim mạch (suy tim, đau ngực), bệnh về hô hấp (hen suyễn), bệnh về thần kinh (an thần, mất ngủ, giảm đau, trấn tĩnh …), bệnh về tiêu hoá (đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy), bệnh về tiết niệu (bí tiểu tiện). Đặc biệt các giáo sư của Nhật Bản đã tìm ra một Sesquiterpens mới trong trầm hương VN (Kỳ Nam từ Khánh Hòa) và chứng minh trong phòng thí nghiệm hiệu ứng kích cảm của nó trên quá trình sinh trưởng của chất nuôi dưỡng tế bào thần kinh – BDNF (Brain-Derived Neurotrophic Factor). Có thể từ kết quả nghiên cứu này mà đến nay Nhật Bản là quốc gia có lượng Kỳ Nam lưu giữ nhiều nhất thế giới.

Tính chất đặc biệt của tinh dầu trầm hương: Tinh dầu trầm hoặc dầu trầm được chiết suất từ trầm hương hoặc từ gỗ cây dó đã tạo trầm, là chất lỏng sánh, màu vàng hoặc màu hổ phách, cho mùi thơm đặc trưng. Có rất nhiều loại tinh dầu trầm được chiết suất từ các loại trầm hình thành trên các loài dó khác nhau, có giá trị  sử dụng và giá trị khác nhau. Sự khác nhau đó thể hiện bên ngoài dễ nhận biết nhất là: Mùi hương, lưu mùi và giá mua bán.

Một số hợp chất của tinh dầu trầm được sử dụng trong lĩnh vực y dược, hóa mỹ phẩm. Đặc biệt tinh dầu trầm hoặc dầu trầm có tính chất sử dụng vừa phổ biến vừa linh thiêng huyền bí đối với các tín đồ Hồi giáo, nhất là khu vực Trung Đông. Các loại phấn sáp, các loại kem, các loại nước hoa sử dụng các hợp chất huyền dịu của tinh dầu trầm, có khả năng làm biến đổi những đặc tính bên ngoài và bên trong của làn da như: xoá vết nám, vết mụn, vết tàn nhang … làm cho lổ chân lông mở ra hay hẹp lại theo sự thay đổi của khí chất mà không tạo ra những phản ứng phụ cho da. Sử dụng hoá mỹ phẩm có tinh dầu trầm làm cho da dẽ mát dịu, con người thêm tươi tắn, hưng phấn, vì thế chúng được xem như là người bạn vĩnh hằng của sắc đẹp.

Tính hấp dẫn của hương trầm: Trầm hương có tính chất cháy cao, khi đốt tỏa mùi rất thơm và được cho là hương thơm hữu ích bật nhất. Nhiều nước phương Đông có tập quán đốt trầm hương hoặc nhang sản xuất từ trầm hương trong dịp cúng  lễ tổ tiên, đất trời, thần thánh; đốt trầm hương để chữa bệnh, trừ tà, tạo sự may mắn, hưng phấn. Một số tôn giáo đốt trầm hương trong các nghi lễ được xem là vật giao lưu truyền cảm giữa con người của thế giới thực tại với thế giới thần linh. Từ thời cổ xưa đến thế giới ngày nay, trong các cung điện, đền đài nguy nga tráng lệ, các chùa chiềng, thánh thất, đình miếu … đốt trầm hương được coi là hình thức dâng cúng linh thiêng cao quý nhất. Đốt trầm hương, thưởng thức hương trầm được coi là tao nhã, có lợi cho sức khỏe, thể hiện quyền thế, địa vị chính trị - xã hội của con người, nhất là ở Nhật Bản, Đài Loan.

Trầm hương còn sử dụng vào các mục đích khác như: Làm vật cất giữ có giá trị, làm quà biếu bang giao, làm vật trang trí đặc biệt nơi ở của vua chúa, của các vị chức sắc tôn giáo cấp cao, mang theo bên mình hoặc cất giữ trong nhà để phòng gió độc, tạo sự may mắn. Trầm hương còn dùng để ướp xác, để chế tác đồ thủ công mỹ nghệ và một số vật dụng khác.

1. 3. Nhu cầu trầm hương trên thị trường thế giới

Trầm hương đã được con người sử dụng hàng ngàn năm qua, vì có nhiều công dụng đặc biệt, chưa có sản phẩm thay thế. Xu hướng tiêu dùng trầm hương vào mục đích làm thuốc chữa bệnh, vào lễ nghi tôn giáo và đời sống tâm linh, để làm sạch môi trường không khí nơi cư trú và nơi làm việc; đặc biệt là các thành tựu mới của khoa học đã tìm ra chất mới trong trầm hương (kỳ nam) nuôi dưỡng tế bào thần kinh, làm cho nhu cầu tiêu dùng trầm hương ngày càng gia tăng.

Thị trường mua bán trầm hương và các sản phẩm trầm hương chủ yếu là Đài Loan, Thái Lan, Hồng Kông, Singapore (70% tái xuất); thị trường tiêu thụ trực tiếp là khu vực Hồi giáo, Phật giáo và các ngành y dược, hương liệu mỹ phẩm,…Tuy số liệu thống kê của các quốc gia và các tồ chức thương mại, tổ chức quản lý quốc tế chưa đầy đủ và thống nhất, nhưng đã cho thấy thị trường thế giới luôn có nhu cầu trầm hương và các sản phầm chế biến từ trầm hương. Theo CITES, khối lượng mua bán trầm hương trên thị trường thế giới thời kỳ 1995 - 1997 khoảng 1.350 tấn. Trong thời kỳ  1993 - 2003 Đài Loan đã nhập khẩu hơn 7.617 tấn và thời kỳ 1991 – 2002 Nhật Bản đã nhập khẩu hơn 281 tấn.

Trầm hương mua bán trên thị trường hầu hết là khai thác từ thiên nhiên. Các nước có nguồn trầm hương cung cấp cho thế giới tập trung chủ yếu ở khu vực Đông Nam Á và vài quốc gia khác như : Ấn Độ, Bangladesh, Bhutan, Papua  New Guinea. Tuy nhiên, nạn khai thác trầm hương vào những thập niên cuối của thế kỷ XX có tính chất hủy diệt, làm cho nguồn cung cấp trầm hương trên thị trường ngày càng cạn kiệt. Chẳng hạng năm 1993, Indonesia khai thác và xuất khẩu hơn 661 tấn thì năm 1997 chỉ còn 302 tấn; tương tự như Indonesia, Malaysia từ 43,6 tấn còn 21,6 tấn; Campuchia năm 1995 khai thác và xuất khẩu 133,8 tấn thì 3 năm sau chỉ còn 13,2 tấn; Ấn Độ năm 1995 xuất khẩu 15,1 tấn thì năm 1997 chỉ còn 1,4 tấn.

Ở Việt Nam, theo thống kê của ngành Thương mại từ năm 1986-1990, khai thác và xuất khẩu khoảng 1.163,9 tấn trầm hương thiên niên. Nhưng cũng giống như các nước là số lượng ngày càng giảm sút. Chẳng hạn năm 1985 khai thác và xuất khẩu 216,1 tấn thì năm 1990 chỉ còn 73,4 tấn.

Trầm hương được mua bán dưới  nhiều hình thái khác nhau, nhưng các nước có nguồn trầm hương, phần nhiều là xuất khẩu dạng mảnh, miếng chiếm 95%, dạng gỗ chiếm 3%, dạng bột chiếm hơn 1% và tinh dầu dưới 1%. Vừa qua, hiện nay và những năm tiếp theo khối lượng trầm hương mua bán trên thị trường sẽ giảm sút nghiêm trọng do nguồn cung cấp từ thiên nhiên đã cạn kiệt và bị ràng buộc bởi sự kiểm soát của Chính phủ các nước và Công ước Quốc tế cấm mua bán các loại động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES),  nên cung cách xa cầu, làm cho giá cả ngày càng tăng lên. Chẳng hạn, một kg kỳ nam của nước ta, thập niên 80 giá từ 1.500 - 5.000 USD, nay tăng lên 30.000 - 100.000 USD (tùy theo loại); trầm hương loại 1 từ 800 -1.200 USD, lên 9.000 - 10.000 USD; các loại khác cũng có mức tăng từ 10 đến 15 lần. Tinh dầu trầm hương hiện nay tùy theo chất lượng, loài cây, xuất xứ và công nghệ chiết suất, có mức giá từ  2.500 đến  100.000 USD/lít.

Điều lưu ý là có khỏang 19 loài dó cho trầm hương và mỗi loài dó cho trầm  rất khác nhau về hạng, loại, thứ loại và giá trị sử dụng, nên giá cả rất khác nhau. Có loài dó tạo ra trầm chỉ bán với giá 20 USD/kg, nhưng có loài tạo ra trầm bán với giá hơn 100.000USD/kg. Do đó, phải nhận biết và chọn loài dó cho trầm nhiều và tốt nhất để trồng.

II. CÁC LOÀI CÂY SINH RA TRẦM HƯƠNG

  1. Cây dó tạo ra trầm hương

Trầm hương sinh ra từ cây dó, nhưng không phải loài dó nào cũng tạo ra trầm hương. Theo thống kê của ngành thực vật học, thế giới có khoảng 25 loài dó, nhưng chỉ 19 loài có khả năng cho trầm hương:

(1) Aquilaria grandiflora Bth,  (phân bố ở Trung Quốc);

(2) A.sinensis Merr hoặc  A.chinesis, (phân bố ở Trung Quốc);

(3) A.yunnanensis.S.C.Huang, (phân bố ở Trung Quốc);

(4) A.beccariana Van Tiegh, (phân bố ở Malaysia, Indonesia);

(5) A.microcarpa Baill, (phân bố ở Malaysia, Indonesia);

(6) A.hirta Ridl, (phân bố ở Malaysia, Indonesia, Singapore);

(7) A.rostrata Ridl, (phân bố ở Malaysia);

(8) A.subintegra Ding Hou, (phân bố ở Thailand);

(9) A.malaccensis Lam, (phân bố ở Ấn Độ, Bhutan, Malaysia, Indonesia, Lào,Thailand);

(10) A.moszkowskii Gill (phân bố ở Indonesia);

(11) A.cumingiana (Decne) Ridl, (phân bố ở Philippines);

(12) A.filaria (Oken) Merr., (phân bố ở Philippines);

(13) A.apiculata Merr., (phân bố ở Philippines);

(14) A.acuminate (Merr.) Quis, (phân bố ở Philippines);

(15) A.crassna Pierrei ex Lecomte, (phân bố ở VN, CPC, Lào);

(16) A.baillonii Pierrei ex Lecomte, (phân bố ở VN, CPC);

(17) A.banaense P.H.Ho, (phân bố ở VN)

(18) A.rugosa L.C.Kiet & P.J.A.Kessler, (phân bố ở VN);

(19) A.khasiana H.Hallier (phân bố ở Ấn Độ, Bhutan).

 Ở nước ta theo thống kê trên, có 4 loài dó có khă năng cho trầm hương được định danh là:

(1) A.crassna  Pierre ex Lecomte, tìm thấy năm 1899, tiếng Việt hay gọi là cây dó Bầu, phân bố  khắp các vùng trong cả nước (từ Hòa Bình đến Kiên Giang). 

Ngoài 4 loài dó có khả năng cho trầm hương trên dây, theo Vũ Văn Dũng và Nguyễn Quốc Dựng (Viện Điều tra quy hoạch rừng VN), nước ta còn có 2 loài dó cũng cho trầm, gồm: (1) G.vidalii Pham Hoang Ho –  Dó bụi (bụi trườn), phân bố Đông Nam tỉnh Thừa Thiên – Huế, đường kính cây từ 4 – 5cm, loài này cho trầm tự nhiên khá tốt; (2) Linostma deccandrum Wallich ex Endlicher – dó Leo, phân bố ở Quảng Nam, Đà Nẵng, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Đồng Nai, Kiêng Giang, cây cao 5 – 10m, loài này cho trầm tự nhiên không tốt.

Theo Giáo sư Gishi Honda (Đại học Tokyo - Nhật Bản), loài dó bầu Việt Nam cho trầm hương tốt nhất thế giới. Điều này đã được Lê Qúi Đôn (1726 -1784) viết trong Phủ biên tập lục:" Kỳ nam hương xuất từ các xã thuộc phủ Bình Khang và Diên Khánh xứ  Quảng Nam là tốt nhất, xuất từ Phú Yên và Qui Nhơn là thứ hai " và theo Nguyễn Phước Tương trong bài viết về nguồn hàng xứ Quảng dưới thời chúa Nguyễn, thì " … Hình như trên thế giới chỉ có trầm hương Đàng trong ở xứ  Quảng là nổi tiếng hơn cả, vì vậy mà ngày xưa dưới thời chúa Nguyễn các quốc gia theo đạo Phật, đạo Hồi ở vùng Đông Nam Á đều rất ưa chuộng trầm hương ở xứ Quảng ".

Cây dó bầu – Aquilaria crassna đã và đang được các tổ chức và cá nhân ở nước ta trồng khắp mọi vùng miền. Hiện có 2 hình thái về cây dó, thường gọi là dó bầu (vỏ màu xám trắng, gỗ màu trắng, hơi mềm, lá dày và lớn) và dó me (vỏ màu sậm, gỗ màu vàng, cứng, lá thưa và nhỏ). Chưa có cơ sở xác nhận dó bầu và dó me là khác loài. Có thể đây là biểu hiện của sự biến đổi về hình thái, nhưng chúng đều là loài Aquilaria crassna.
2.2. Cây dó bầu - Đặc điểm hình thái
Cây dó bầu có thể cao 30 - 40m, đường kính 50-80 cm hoặc hơn , tán thưa, thân thẳng, vỏ màu xám, nhiều xơ. Lá đơn, mọc cách có dạng hình trứng, đầu mũi nhọn, phiến lá dài 8-12 cm, rộng 3-6 cm, mặt trên màu xanh lục, mặt dưới hơi xám. Cây trên 3 tuổi có thể ra hoa. Hoa lưỡng phái, hình chuông, màu trắng, có nhiều lông ở miệng. Quả nang hình trứng, dài 3-4 cm; mỗi quả thường cho một đến hai hạt. Dó bầu là cây mọc nhanh, ở tự nhiên mức tăng trưởng có thể 1,0-1,2 mét/năm đối với chiều cao, 1,5-2,5 cm/năm đối với đường kính; gỗ màu trắng hoặc màu vàng nhạt, mềm, nhẹ, không phân biệt giác, lỏi.                       

2.3.Cây dó bầu - Đặc điểm sinh thái
Dó bầu là cây trung tính, lúc nhỏ ưa bóng, khi lớn thiên về sáng, mọc rãi rác trong các khu rừng thuộc kiểu ẩm nhiệt đới nguyên sinh hoặc thứ sinh, xanh quanh năm, sống thích hợp trong rừng hỗn giao, cây lá rộng. Cây dó bầu có thể tái sinh bằng chồi hoặc bằng hạt, sinh trưởng, phát triển trong các điều kiện: Nhiệt độ bình quân 20 - 25oC; lượng mưa hàng năm trên 1.200 mm; độ ẩm không khí trên 80%; độ cao dưới 1.200m trở lại, so với mặt nước biển; độ dốc dưới 45o trở  xuống. Cây dó bầu có thể sinh trưởng trên nhiều loại đất núi, đất đỏ xám, đỏ vàng, đất feralit, thích hợp nhất là đất nâu vàng, đất thịt lẫn đá còn tính chất rừng, không thích hợp đất đá vôi, đất cát, đất ngập úng.

2.4. Cây dó bầu - Đặc điểm sinh học
Cây dó bầu có khả năng sinh ra trầm hương. Trầm hương sinh ra từ cây dó bầu là do: "Sự biến đổi phân tử của gỗ dưới ảnh hưởng của một loại bệnh gây ra" (Cây thuốc Campuchia, Việt Nam, Lào - Alfred Pe'telot, 1954 ). Gỗ cây dó bầu có cấu tạo đặc biệt là hiện tượng libe xen giữa các thớ gỗ, có thể dẫn chất nuôi cây từ đây, nhờ đó nên dù vỏ bị bóc sạch mà cây không chết. Có thể đây là một trong những điều kiện tự nhiên cho quá trình hình thành trầm hương trên cây dó bầu.

Trong thiên nhiên thường bắt đầu từ những tác động nào đó, gây ra các tổn thương nhất định trên cây, khi đó một loại kháng sinh trong thân cây được “huy động” đến nơi bị thương để bao vây, ngăn chặn và chính sự tương tác đó là những điều kiện để hình thành trầm hương. Quá trình này diễm ra trong tự nhiên hết sức ngẫu nhiên và lâu dài. Điều này là một trong những lý giải tại sao không phải cây dó nào trong rừng tự nhiên cũng cho trầm và câu ngạn ngữ: “ Ngậm ngãi tìm trầm” có thể bắt nguồn từ đây.

Theo những người khai thác trầm trước đây, do kinh nghiệm, họ tác động có ý thức vào cây dó tìm được trong rừng  bằng cách khoét trên thân cây những lổ có kích thước khác nhau hoặc chặt (còn gọi là mở miệng), để nhiều năm sau quay lại khai thác được trầm.Từ xưa người ta biết cây dó ở thiên nhiên có trầm là cây có tán lá ngừng phát triển, chót cành ngừng ra lộc, màu lá từ màu xanh đậm sang màu xanh vàng. Khi trầm trong cây dó phát triển tăng lên về số lượng và chất lượng thì lá chuyển thành màu vàng, rụng nhiều, vỏ cây xuất hiện sần sùi, một số cành bắt đầu khô. Từ lúc cây mới nhiễm bệnh "ăn trầm" đến khi trầm có chất lượng cao phải mất vài chục năm hoặc lâu hơn.

Trầm hương ở thiên nhiên có thể hình thành bất kỳ nơi nào trên cây dó, nhưng phần nhiều tập trung ở phần thân gần gốc và rễ. Số lượng và chất lượng trầm hương khai thác ở thiên nhiên phụ thuộc vào các yếu tố như loài và tuổi cây, đất đai, địa hình, khí hậu thời tiết, thời gian nhiễm bệnh tụ trầm … Và ở mỗi nơi, mỗi vùng trầm hương thu được trên những cây dó "nhiễm bệnh" không giống nhau về kích cở, màu sắc, trọng lượng, thứ hạng, mùi hương. Riêng kỳ nam hầu như chưa có tài liệu nào cho biết sự hình thành của chúng ở loài  dó nào hay do một loại nấm hoặc vi khuẩn đặc biệt nào đó, trong điều kiện sinh trưởng khác thường nào đó … tạo nên. Tuy nhiên, theo những người khai thác và mua bán trầm kinh nghiệm lâu năm thì kỳ nam chỉ tìm thấy ở một số vùng nhất định ở các tỉnh Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng) và Khánh Hòa, nhưng khó tìm thấy trên cùng một cây dó vừa có trầm vừa có kỳ nam.

2.5. Nạn khai thác có tính hủy diệt, loài dó có nguy cơ bị tuyệt chủng    

Khoảng nửa thế kỷ qua, do chiến tranh hủy diệt, do chặt phá bừa bãi, hơn ½ diện tích rừng nước ta đã bị tàn phá. Hiện nay rừng vẫn tiếp tục bị mất. Mất rừng đồng nghĩa với  mất tài nguyên rừng, trong đó có những đặc sản hết sức quý hiếm như trầm hương. Nạm khai thác trầm hương ồ ạt phục vụ cho xuất khẩu vào những thập niên áp cuối của thế kỷ XX đã làm cho loài dó tạo ra trầm hương của nước ta có nguy cơ bị tận diệt. Rừng ở các tỉnh phía Bắc hầu như không còn trầm hương. Rừng ở các tỉnh miền Trung và Tây nguyên, cây dó coi như cơ bản bị xoá sổ. Rừng ở vùng Bảy núi tỉnh An giang, đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang cây dó cũng bị tàn phá khốc liệt. Phần đông người khai thác trầm hương ngày nay thường ít kinh nghiệm và hiể biết, hễ thấy cây dó là chặt hạ, băm ra để tìm trầm, thậm chí đến gốc rễ cây dó cũng bị đào xới, băm nát.

GS Phạm Hoàng Hộ trong sách "Thực vật ở đảo Phú Quốc" (1985) đã viết: Người "ăn" trầm của chúng ta bây giờ không có kinh nghiệm như người xưa và đốn bừa bãi tất cả những cây dó, nên cây dó có hiểm hoạ bị tận diệt. Chúng ta cần phải khẩn cấp gây trồng cây dó để giữ giống và nghiên cứu cho nhiễm nấm để tạo trầm.
GS sinh học Phan Kế Lộc trong bài viết: Hãy cứu loài thật vật đang bị đe doạ (1986) đã nêu: Một số cây có công dụng đặc biệt như hoàng đàn cho gỗ làm hương, dó bầu cho các mặt hàng kỳ nam và trầm hương có giá trị xuất khẩu cao. Đây là hai loài cây bị khai thác một cách tàn bạo nhất. Chẳng hạn hoàng đàn, sau khi bị đốn thân, còn dùng bộc phá để đào bật rễ; dó bầu bị khai thác bất cứ ở vào lứa tuổi nào, người ta dùng dao hoặc rìu bổ dọc thân cây và rể để tìm trầm. Với cách khai thác như vậy thì không cây nào cho hạt giống và sống nổi, hơn thế nữa môi trừơng sống của chúng ta là rừng cũng bị tàn phá, cho nên chắc chắn những cây quý sẽ bị tiêu diệt trong một tương lai không xa.

Công ước buôn bán Quốc tế về các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) đã xếp loài dó (Aquilaria Lamk) có khả năng cho trầm hương  vào lòai cây hoang dã bị đe dọa tuyệt chủng và nghiêm cấm khai thác buôn bán. Chính phủ VN ban hành Nghị định số 18/HĐBT, ngày 17/01/1992, quy định danh mục thực vật rừng, động vật rừng và chế độ quản lý đã xếp cây dó bầu (Aquilaria crssna) vào nhóm thực vật IA, là những thực vật đặc hữu, có giá trị đặc biệt về khoa học và kinh tế, có số lượng, trữ lượng rất ít hoặc đang có nguy cơ bị tuyệt chủng và nghiêm cấm khai thác, sử dụng. Tuy nhiên, nạn khai thác, chặt phá, mua bán trầm hương thiên nhiên từ đó đến nay vẫn liên tục diễn ra. " Diện tích rừng nói chung, diện tích rừng có trầm hương nói riêng càng ngày bị thu hẹp. Không ít loài thực vật đã bị tiêu diệt ”; “ Sự biến mất của bất kỳ loại thật vật nào, trứơc hết là những loài đặc hữu, sẽ là những tổn thất không thể nào bù đắp được đối với nền kinh tế cũng như đối với khoa học, đối với thế hệ ngày nay cũng như đối với các thế hệ mai sau ” (Trầm hương Nxb KH & KT, 1991).

Do đó, bảo tồn, phát triển cây dó bầu - loài thực vật đặc hữu, quý hiếm, cho trầm hương tốt nhất của nước ta là cấp thiết.

III. LỢI  ÍCH, THÁCH THỨC VÀ TRIỂN VỌNG

  1. Lợi ích

Dó bầu là cây đặc hữu, quý hiếm, có giá trị đặc biệt về khoa học và kinh tế của nước ta (theo NĐ 18/HĐBT, ngày 17/01/1992 của Hội  đồng bộ trưởng), là cây đa dụng, có thể trồng rừng sản xuất (theo QĐ số 14/QĐ.BNN.KHCN, ngày 07/6/2005 của Bộ NN & PTNT), trồng rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn;  gỗ có thể làm nguyên liệu sản xuất giấy; lá có thể chế biến thành trà chức năng; vỏ có thể làm sợi; thân, cành, rễ có thể tạo trầm hương. Mục đích chính của trồng cây bầu là để tạo được trầm và các sản phẩm sau khi tạo được trầm là tinh dầu, bột nhang trầm.

Giá trị kinh tế từ trồng cây dó bầu tạo được trầm tập trung ở hai loại sản phẩm chính là: Trầm miếng (mảnh) và  tinh dầu trầm.

 Bảng tính chi phí trồng, chăm sóc, tạo trầm, bảo vệ cho 1 ha/chu kỳ SX 10 năm:

Khỏan mục

Đơn vị

Số lượng

Đơn giá(đ)

Thành tiền(đ)

1. Chi phí nhân công, trong đó:

Đồng

   

41.600.000

   - Làm đất, đào hố, bón phân, trồng;

Công

120

80.000

9.600.000

   - Chăm sóc, bảo vệ.

Công

400

80.000

32.000.000

2. Chi phí vật liệu, trong đó:

Đồng

   

 10.866.000

   - Cây giống, có thêm 10% trồng dặm;

Cây

1.222

3.000

3.666.000

   - Phân bón VS.

Kg

2.400

3.000

7.200.000

3. Chi phí phòng trừ sâu bệnh

Cây

1.100

10.000

11.000.000

                                       Cộng chi phí 1-3

Đồng

   

 63.466.000

4. Chi phí tạo trầm:

Cây

1.000

500.000

500.000.000

5 Chi phí vốn (LS 12%/năm), trong đó:

Đồng

   

158.800.000

   -Trồng, chăm sóc, bảo vệ 10 năm;

Đồng

   

38.800.000

   -Tạo trầm 2 năm.

Đồng

   

120.000.000

                                       Tổng chi phí 1-5

Đồng

   

 722.266.000

  1. Hiệu quả của một số loại hình kinh doanh: 

Trường hợp kinh doanh trầm miếng: Cây dó trồng 8 năm tuổi thì tạo trầm 2 năm (chu kỳ kinh doanh 10 năm), số cây dó bầu tạo trầm khi thu hoạch 1.000 cây/ha ((90%), lượng trầm thu được bình quân 1kg loại 5/cây, giá bán bình quân 150 USD/kg, doanh thu sẽ là 150.000 USD/ha, tương ứng với 3.000.000.000  VND  (tỷ giá 20.000 VND/USD). Với mức chi phí 1.022.266.000 VND/ha (bao gồm đầu tư trồng, chăm sóc, tạo trầm, bảo vệ 722.266.000 VND/ha và chi phí khai thác, chế tác 300.000.000 VND/ha), thì thu nhập trước thuế là 1.977.734.000 VND/ha.

Trường hợp kinh doanh tinh dầu trầm: Tòan bộ cây dó bầu đã tạo trầm như trường hợp kinh doanh trầm miếng, chế biến thành tinh dầu với mức tiêu hao bình quân 40 cây/lít tinh dầu (4.000 kg tươi), sản lượng tinh dầu thu được 25 lít/ha, giá bán bình quân 8.000 USD/lít, doanh thu sẽ là: 200.000 USD/ha, tương ứng với 4.000.000.000 VND/ha. Với mức chi phí 1.472.266.000 VND/ha (bao gồm đầu tư trồng, chăm sóc, tạo trầm, bảo vệ  722.266.000 VND/ha và chi phí khai thác chế biến 750.000.000 VND/ha, thì thu nhập trước thuế là 2.527.734.000 VND/ha.  
             Bảng tính sản lượng, doanh thu và thu nhập trước thuế các loại hình KD cho 1 ha

Lọai hình kinh doanh

Số lượng

Doanh thu (đồng)

Chi phí     (đồng)

Thu nhập (đồng)

1. Chế biến trầm miếng

1.000 kg

 3.000.000.000

1.022.266.000

1.977.734.000

2. Chế biến tinh dầu

25 lít

 4.000.000.000

 1.472.266.000

 2.527.734.000

Ngoài hiệu quả kinh tế trực tiếp, trồng cây dó bầu, tạo trầm còn:

Tạo công ăn việc làm cho người lao động, mở ra hướng phát triển kinh tế bền vững cho nông thôn, vùng sâu vùng xa;

Tạo nguồn nguyên liệu cho phát triển công nghiệp chế biến tinh dầu, công nghiệp hương liệu, mỹ phẩm và dược phẩm.

Tăng độ che phủ của rừng, chống xói mòn đất, giữ nước, bảo vệ môi trường.

Bảo tồn và phát triển lòai cây đặc hữu, qúy hiếm, có giá trị đặc biệt về khoa học và kinh tế của nước ta.

Đó còn là sự phù hợp của quy luật sản xuất đi đôi với bảo vệ môi trường, kết hợp lợi ích trước mắt với  lợi ích lâu dài, làm giàu trên cơ sở khai thác và tái tạo lợi thế đặc hữu, ưu việt của tài nguyên quốc gia.

3.3. Thách thức

Trồng cây dó bầu, tạo được trầm hương sẽ cho hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, để đưa trầm hương thành ngành sản xuất hàng hóa đạt hiệu quả cao về kinh tế - xã hội –môi trường, trước mắt còn nhiều khó khăn, thách thức, trong đó có 5 thách thức lớn nhất.

Một là, thách thức về tạo trầm. Tạo trầm trên cây dó bầu là khâu có tính quyết định sự thành – bại của ngành sản xuất trầm hương nước ta. Từ thực tiễn sản xuất, ở đâu có trồng cây dó, ở đó có sáng kiến tạo trầm và từ khoa học đã có các đề tài nghiên cứu về tạo trầm trên cây dó. Tuy nhiên, chưa có phương pháp – công nghệ tạo trầm nào được xác định, ứng dụng rộng rãi cho từng vùng miền, theo năm tuổi cây trồng, cho trầm về số lượng, chất lượng, mùi hương thích hợp với thị hiếu của từng loại khách hàng.

Hai là, thách thức về thị trường. Trầm hương thiên nhiên của nước ta trước đây nổi tiếng trên thị trường quốc tế về chất lượng và mùi hương, nhưng nay đã bị mai một, do có sự xảo trá của con người (làm hàng giả, lừa dối…). Trầm hương nhân tạo và các mặt hàng chế biến từ cây dó bầu đã tạo rầm là dòng sản phẩm mới, số lượng chưa nhiều, chât lượng chưa cao, mùi hương chưa thích ứng với thị hiếu của từng loại khách hàng; công nghệ sản xuất, chế biến lạc hậu, xuất xứ, chất lượng sản phẩm thiếu rõ ràng, minh bạch, chưa đủ thủ tục pháp lý lưu thông chính thức và cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Ba là, thách thức về cây chết. Cây dó bầu trồng thường “đột tử” vào năm thứ thứ 4 trở đi, do vàng lá, úng vỏ, thối rễ, chưa tìm được nguyên nhân và phương pháp, loại thuốc chữa trị.

Bốn là, thách thức về vốn đầu tư. Trồng cây dó bầu, tạo trầm có mức đầu tư khá lớn (700 – 800 triệu/ha, chưa kể phí tổn về đất), chu kỳ kinh doanh dài ngày (khoảng hơn 10 năm), lại tiến hành ở những địa bàn gặp nhiều khó khăn (trồng cây ở vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa…), nhưng chưa được vay vốn hổ trợ của Nhà nước hoặc vay vốn của các tổ chức tín dụng khác từ nguồn đầu tư dài hạn.

Năm là, thách thức về sự hợp tác. Hiểu biết về sản xuất trầm hương (trồng cây dó bầu, tạo trầm, chế biến, thị trường…) còn nhiều khiếm khuyết, nhưng sự hợp tác giữa các tổ chức và cá nhân chung lo, tìm đường thích hợp cho sự hình thành và phát triển của ngành hết sức hạn chế, thậm chí đối nghịch nhau.

3.4.Triển vọng

Trên đường xây dựng và phát triển tuy còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng ngành sản xuất trầm hương nước ta, đang có nhiều triển vọng.

Một là, trồng cây dó, tạo được trầm, hiệu quả kinh tế rất cao so với nhiều cây trồng khác. Đây là động lực trực tiếp thúc đẩy các tổ chức và cá nhân đầu tư vào ngành SX mới này. Thật hấp dẫn và lý tưởng đối với sản xuất lâm nghiệp khi một ha trồng cây dó bầu, tạo được trầm có thể làm ra giá trị  3-4 tỷ đồng/CKSX 10 năm, trong đó thu nhập 1,9 – 2,5 tỷ đồng/ha, bình quân gía trị tạo ra từ 300 – 400 triệu/ha/năm và thu nhập từ 190 – 250 triệu/ha/năm.

Hai là, trầm hương chưa có sản phẩm thay thế, trong khi xu hướng tiêu dùng vào mục đích làm thuốc chữa bệnh, vào lễ nghi tôn giáo, đời sống tâm linh và làm sạch môi trường không khí, ngày càng gia tăng, nhất là lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng, trong đó đối với các tín đồ Hồi giáo, luôn có nhu cầu tiêu dùng ổn định và ngày càng tăng.

Ba là, sự khan hiếm về nguồn cung cấp trầm hương (thiên nhiên cạn kiệt, sự phục hồi tự nhiên hết sức lâu dài ), làm cho giá cả có xu hướng ngày càng tăng. Dòng sản phẩm mới là trầm hương nhân tạo sẽ từng bước thay cho trầm hương thiên nhiên, ngày càng thích ứng với thị hiếu của người tiêu dùng. Điều hết sức may mắn là cây dó bầu cho trầm hương nhiều và tốt chỉ có ở nước ta và một số quốc gia (Campuchia, Lào, Thái Lan). Đó là lợi thế so sánh hết sức quan trọng cho ngành sản xuất trầm hương.

Từ kinh nghiệm thành công bước đầu về trồng cây dó, tạo được trầm, cùng với khát khao làm giàu, tính năng động sáng tạo của người Việt Nam, có sự quan tâm, hổ trợ  của Nhà nước sẽ là cơ hội, triển vọng lớn lao cho sự phát triển ngành sản xuất trầm hương nước ta ./.