Phân loại trầm kỳ
Người ta thường đánh giá, phân biệt và xếp hạng trầm kỳ theo màu sắc, hương thơm, độ cứng, mềm. Giá cả cũng từ đó mà có khác nhau. Đây là kinh nghiệm truyền đời trong dân gian, cũng như theo cách tuyển chọn tiêu chuẩn xuất khẩu. Trầm hương chỉ có thể giáng khí, kỳ nam có thể chữa bệnh trúng phong, đàm suyễn, cấm khẩu, mọi chứng, mài vào nước mà rỏ và đốt khói cho hơi hương vào mũi thì tỉnh lại ngay.
Cách phân loại trầm hương, kỳ nam từng được người xưa xem xét tỉ mỉ, kỹ lưỡng.Tục ngữ nói: “Nhất bạch, nhị thanh, tam hoàng, tứ hắc”. Muốn phân biệt trầm với kỳ nam thì lấy hình, chất, khí vị mà phân biệt. Trầm hương thì cứng, nặng, ít thơm, sắc nhạt, vị đắng;, kỳ nam thì mềm nhẹ, có hơi dầu, thơm mát, vị gồm đủ cay ngọt, chua, đắng; đốt trầm hương thì khói kết xoáy rồi sau mới tan, đốt kỳ nam thì hơi khói lên thẳng mà dài.
Trầm hương chỉ có thể giáng khí, kỳ nam có thể chữa bệnh trúng phong, đàm suyễn, cấm khẩu, mọi chứng, mài vào nước mà rỏ và đốt khói cho hơi hương vào mũi thì tỉnh lại ngay. Đau bụng đầy tức thì ngậm là khỏi ngay. Lại có thể trừ được tà khí, uế khí, nên trong chỗ hành dịch, hành quân không thể không dùng. Kiêng nhất là bọc giấy, nên chứa vào đồ sứ hay đồ thiếc, rồi lấy bẹ chuối bọc vào cho kín, phơi giữa chỗ mặt trời, đến chiều lấy ra thì nước dầu tiết ra. Cũng không nên phơi luôn”.
Trầm hương ít dùng làm thuốc, thường dùng để đốt lấy hương trong các dịp cúng tế, lễ lạc, giá trị thua kỳ nam nhưng thông dụng hơn. Hình dáng, màu sắc của một miếng trầm rất đa dạng, có khi là một miếng gỗ hình trụ hoặc hình chóp nón, có miếng màu nâu nhạt, miếng màu đen sẫm, miếng màu vàng bợt…
Dân gian thường chia trầm hương làm nhiều loại:
Trầm rễ: do rễ cây sinh ra, loại này rất tốt, có giá trị cao.
Trầm kiến: có lỗ có hang do kiến đục làm tổ trước khi cây thành trầm (dân đi địu có câu: “nhất kỳ, nhì kiến”).
Trầm kiến chia thành:
Kiến xanh: từ thân cây dó sinh ra, màu xanh đậm, cứng.
Kiến điệp: mềm hơn, có rất nhiều dạng.
Kiến kim: chạy đường vân nhỏ, dẹp, giống đường kim may.
Kiến vách lầu: ăn theo đường vân có hình nhà tầng, trông thoạt như vách nhà lầu xây.
Kiến gai: hay còn gọi là kiến cây trường lão, còn có tên là kiến ông. Kiến ăn giữa ruột cây Dó, chạy sợi vân có hình cây gậy “nam cực tiên ông”.
Kiến lỗ: ăn đục thành từng lỗ trong ruột cây dó.
Kiến trắng: gọi theo màu sắc. Loại này có giá tiền cao hơn, vì tạo nên trầm tốt.
Kiến đen đụp: chỉ có trầm ở hai đầu, giữa thân toàn là cơm, trong giới đi địu, gọi là kiến tà ha.
Trầm tốc: ở nơi thân cây sinh ra, miếng trầm đặc, không có lỗ. Trầm tốc có nhiều nhất và được ưa chuộng trên thị trường, chia ra làm nhiều thứ giá bán khác nhau:
Tốc bông: màu vàng lợt, có đường vân tạo giống như hình bông hoa.
Tốc đá: có màu đen, sẫm, cứng, dáng hình kiến ăn dày như tán đường đinh. Lúc xoi trong cây dó, tốc đá có màu đen. Tuy nhiên, để một lát sau, do ảnh hưởng không khí tác động, tốc đá có màu bợt.
Tốc lọ nghẹ: màu đen đen như bồ hóng và nặng.
Tốc xám: màu xam xám như tro.
Tốc nước: mềm, áo đen, màu vàng lợt, ngoài mỏng. Sau khi dạt ra, tốc nước có mùi thơm dịu dàng.
Tốc ớt: có mùi hăng hăng, màu vàng bợt.
Tốc hương: sắc vàng lợt, hương đượm, thường bao quanh kỳ nam, cho nên có nhiều gân nhiều điểm kỳ nam lẫn vào.
Tốc thẻ: kiến ăn chạy theo đường vân giống như tấm thẻ.
Tốc lưới: đường vân chằng chịt như mắt lưới đánh cá.
Tốc phao: có hình tròn, giống phao lưới, màu vàng bợt. Tốc này có mùi thơm nhẹ nhàng và dịu.
Tốc cá ngừ: trông dáng hình ba khoanh tròn đồng tâm, màu sám giống thịt màu cá ngừ.
Tốc da: do kiến ăn ngoài da cây dó, nổi từng đường vân trông thấy ngay ở ngoài da, vì thế rất dễ nhận biết.
Kỳ nam được phân biệt với trầm hương ở mùi thơm và lượng dầu kết tinh. Dầu ở kỳ nam kết tinh giống như sáp ong, tỏa mùi thơm ngào ngạt.
Dựa vào màu sắc, người ta chia kỳ nam thành 4 loại theo thứ tự giá trị: “nhất bạch, nhì thanh, tam huỳnh, tứ hắc”.
Kỳ bạch có màu trắng ngà, chất mềm và rất nhiều dầu; kỳ thanh có màu xanh bóng, nhiều dầu thì mềm, ít dầu thì cứng; kỳ huỳnh vàng như sáp ong, chất cứng và nặng, để lâu khô dầu trở nên nhẹ; kỳ hắc có màu đen bóng, ít mùi thơm. Theo kinh nghiệm dân gian, kỳ nam là vị thuốc quý dùng trị các chứng đau bụng kèm ói mửa, tiêu chảy rất hay (mài với nước hoặc ngâm rượu mà uống) hoặc dùng trong trường hợp người bị trúng gió, bất tỉnh, cấm khẩu (mài với nước cạy miệng đổ vào hoặc đốt xông vào lỗ mũi) hiệu nghiệm như thần. Phụ nữ có thai kỵ kỳ nam, không nên uống hoặc mang theo trong người vì có thể bị sẩy thai.
Kỳ nam là do thiên tạo, khác với trầm hương là do con người mở miệng cây dó. Chính vì thế mà kỳ nam vô cùng quý hiếm. Rất ít gia đình có được sản vật này, nếu có thì họ cất giữ đề phòng những khi bất trắc ngộ độc, trúng gió, hoặc để cứu người. Lại có ý kiến cho rằng kỳ nam còn có tác dụng xua đuổi những điều xấu, đem lại điều lành trong việc làm ăn.